Quy định về thời hạn sử dụng chung cư tại Việt Nam?
Quy định về thời hạn sử dụng chung cư tại Việt Nam?
Theo quy định tại điều 123, luật Nhà ở 2014: “Việc mua bán nhà ở phải lập thành hợp đồng có công chứng. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bán thực hiện bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với nhà ở đó trong một thời hạn nhất định cho bên mua”.
Tại khoản 1 điều 98, luật Nhà ở 2014 quy định: “Nhà chung cư được phân thành nhiều hạng khác nhau để xác định giá trị của nhà chung cư khi thực hiện quản lý hoặc giao dịch trên thị trường”.
Về mức độ phân hạng cần căn cứ theo thông tư 31/2016/TT-BXD, theo đó, mỗi công trình căn hộ được phân thành 3 hạng A, B, C, tùy vào mật độ xây dựng, khả năng tiếp cận phương tiện giao thông công cộng đô thị, bình quân diện tích sử dụng căn hộ trên số phòng ngủ tối thiểu,…
Việc phân hạng chung cư được cơ quan quản lý công nhận sẽ tránh việc tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến mức giá dịch vụ, quản lý chung cư. Đây là cơ sở để áp dụng mức giá dịch vụ quản lý, vận hành chung cư theo khung giá đã được UBND cấp tỉnh ban hành.
Thời hạn sử dụng nhà chung cư theo đó cũng được phân thành nhà chung cư sở hữu lâu dài và nhà chung cư sở hữu có thời hạn, tùy thuộc vào phân loại công trình, chất lượng công trình đối với từng dự án đầu tư và được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
Cũng như những tài sản khác, khi trải qua một thời gian dài sử dụng, do các tác động khách quan từ thiên nhiên và tác động chủ quan từ phía người sử dụng, các căn hộ chung cư đến lúc sẽ xuống cấp, hư hỏng, nếu tiếp tục sử dụng sẽ nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy, sau một thời gian sử dụng, nhà chung cư được kiểm định căn cứ vào cấp công trình xây dựng.
Niên hạn sử dụng nhà chung cư
Khoản 1, điều 99, luật Nhà ở 2014 quy định: “Thời hạn sử dụng nhà chung cư được xác định căn cứ vào cấp công trình xây dựng và kết luận kiểm định chất lượng của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà chung cư”.
Cách tính thời hạn theo cấp công trình xây dựng dựa trên phụ lục phân cấp các loại công trình xây dựng phục vụ công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng được ban hành kèm theo Thông tư số 10/2013/TT-BXD ngày 25/7/2013 của Bộ xây dựng, quy định:
Công trình cấp 4 có niên hạn sử dụng dưới 20 năm;
Công trình cấp 3 có niên hạn sử dụng từ 20 năm đến dưới 50 năm;
Công trình cấp 2 có niên hạn sử dụng từ 50 năm đến 100 năm;
Công trình cấp 1 và công trình đặc biệt có niên hạn sử dụng trên 100 năm.
Khi nhà chung cư hết thời hạn sử dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh phải tổ chức kiểm định chất lượng công trình nhà chung cư này để xử lý.
Việc tổ chức kiểm định cũng được thực hiện trong trường hợp nhà bị hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ, không bảo đảm an toàn cho người sử dụng (Khoản 2 Điều 99 Luật Nhà ở 2014).
Quy định về thời hạn sử dụng chung cư phụ thuộc vào cấp công trình như trên đã phần nào tạo thêm cơ hội cho chính sách đầu tư vào thị trường bất động sản của các nhà đầu tư, đồng thời cũng khuyến khích các họ mạnh dạn trong việc bỏ đồng vốn xây dựng các công trình có chất lượng, phù hợp quy chuẩn, qua đó đem lại cuộc sống an toàn, bền vững cho các hộ dân.
Hết niên hạn sử dụng nhà chung cư
Tại điểm a, khoản 2, điều 99, luật Nhà ở 2014 có quy định trường hợp nhà chung cư còn bảo đảm chất lượng và an toàn cho người sử dụng thì chủ sở hữu được tiếp tục sử dụng theo thời hạn ghi trong kết luận kiểm định. Trừ trường hợp nhà chung cư bị hư hỏng mà chưa thuộc diện bị phá dỡ nhưng nằm trong khu vực phải thực hiện cải tạo, xây dựng đồng bộ với khu nhà ở thuộc diện bị phá dỡ theo quy hoạch xây dựng được phê duyệt.
Còn đối với trường hợp nhà chung cư bị hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ, không còn bảo đảm an toàn cho người sử dụng thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh phải ban hành kết luận kiểm định chất lượng và báo cáo UBND cấp tỉnh để thông báo bằng văn bản cho chủ sở hữu nhà ở. Nội dung văn bản thông báo phải được công bố công khai trên cổng thông tin điện tử của UBND và cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh, trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương.
Chủ sở hữu nhà chung cư có trách nhiệm phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mới hoặc bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền để phá dỡ và xây dựng công trình khác theo quy định tại khoản 3 điều 99 luật nhà ở 2014 khi hết niên hạn sử dụng nhà ở.
Cũng theo quy định tại khoản 3 của bộ luật này, trong trường hợp nếu khu đất có nhà chung cư vẫn phù hợp với quy hoạch xây dựng nhà ở thì chủ sở hữu được cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mới.
Nếu khu đất có nhà chung cư không còn phù hợp với quy hoạch xây dựng nhà ở thì chủ sở hữu nhà chung cư phải bàn giao lại nhà chung cư này cho cơ quan có thẩm quyền để phá dỡ và xây dựng công trình khác theo quy hoạch được duyệt.
Quyền lợi của người có quyền sở hữu nhà chung cư
Tại Nghị định 99/2015/NĐ-CP (quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật nhà ở) có quy định các chủ sở hữu có nhà chung cư thuộc diện phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì được bố trí tái định cư.
Việc bố trí tái định cư bằng nhà ở được thực hiện thông qua hợp đồng cho thuê, cho thuê mua, mua bán nhà ở ký giữa người được bố trí tái định cư với đơn vị được giao bố trí tái định cư nếu do Nhà nước đầu tư; ký với chủ đầu tư dự án nếu do doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đầu tư xây dựng.
Nếu chủ sở hữu không có nhu cầu tái định cư tại chỗ thì tùy theo điều kiện cụ thể của địa phương mà được bố trí nhà ở, đất ở tái định cư theo quy định tại điều 36 của luật Nhà ở 2014. Trường hợp chủ sở hữu có nhu cầu tái định cư tại chỗ thì được bố trí nhà ở mới có diện tích tối thiểu bằng hoặc lớn hơn diện tích nhà ở cũ.
Trường hợp Nhà nước đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì chủ đầu tư dự án phải lo chỗ ở tạm thời hoặc thanh toán tiền để người được tái định cư tự lo chỗ ở trong thời gian cải tạo, xây dựng lại.
Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và chủ sở hữu thỏa thuận đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì việc bố trí chỗ ở tạm thời của chủ sở hữu trong thời gian cải tạo, xây dựng lại cũng như việc thanh toán giá trị chênh lệch được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên.
Khi nhà nước đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mà có chênh lệch về giá trị giữa nhà ở cũ và nhà ở mới thì việc thanh toán giá trị chênh lệch được thực hiện theo phương án bố trí tái định cư đã được phê duyệt.
Như vậy, quyền lợi của chủ sở hữu căn hộ chung cư đã được đảm bảo hơn. Qua đó, các hộ gia đình, cá nhân sẽ an tâm hơn khi lựa chọn nhà chung cư làm nơi an cư lạc nghiệp.
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
Bộ Tài chính: “Đánh thuế tài sản góp phần giảm giá nhà, đất”
- Published in Tin tức
Bộ Tài chính: “Đánh thuế tài sản góp phần giảm giá nhà, đất”
Bộ Tài chính: “Đánh thuế tài sản góp phần giảm giá nhà, đất”
Luật Thuế tài sản sẽ góp phần đưa giá nhà về mức đáp ứng đúng nhu cầu và khả năng thanh toán thực tế của người dân?
Sau buổi họp báo gây xôn xao dư luận cách đây 5 hôm, chiều 17/4, Bộ Tài chính vừa tiếp tục công bố chi tiết góp ý dự thảo xin ý kiến hồ sơ lập đề nghị xây dựng dự án Luật thuế tài sản, trong đó có báo cáo đánh giá tác động dự án đến thị trường bất động sản.
Theo đó, Bộ Tài chính đánh giá, Luật Thuế tài sản sẽ có tác động trực tiếp trong ngắn hạn là việc đánh thuế đối với tài sản, đặc biệt là mở rộng đối tượng chịu thuế là nhà ở sẽ góp phần điều chỉnh hành vi đầu cơ nhà, đất, từ đó góp phần giảm giá nhà, đất, đáp ứng đúng nhu cầu và khả năng thanh toán thực tế của người dân.
“Có thể khẳng định rằng, thuế không phải là công cụ duy nhất ngăn chặn các hoạt động đầu cơ về nhà đất nhưng thuế là một công cụ tài chính hữu hiệu góp phần hạn chế hành vi đầu cơ của các nhà đầu tư”, Bộ Tài chính cho biết.
Về dài hạn, theo Bộ Tài chính, chính sách này sẽ mang đến “rất nhiều lợi ích” cho nền kinh tế, góp phần điều chỉnh hành vi đầu cơ, tích trữ bất động sản, phản ánh thật cung – cầu về nhà đất trên thị trường, góp phần giúp thị trường bất động sản minh bạch và phát triển lành mạnh, bền vững, khuyến khích nguồn tiền đầu tư vào bất động sản chuyển sang thành nguồn vốn đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế.
Đánh thuế nhà cũng được coi là công cụ để điều chỉnh phân bố dân cư trong quá trình đô thị hóa.
Ngoài ra, cơ quan soạn thảo cho rằng, Luật Thuế tài sản ra đời nhằm phù hợp với thực tế tại Việt Nam là những người sở hữu nhiều nhà, đất là những người có tiềm lực về tài chính, giải pháp có quy định mức thuế suất cao hơn đối với đất sử dụng không đúng mục đích; đất và nhà ở không đưa vào sử dụng để khuyến khích hơn nữa việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nhà, đất. Quy định nêu trên cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, được nhiều nước trên thế giới áp dụng và thành công.
Đồng thời khẳng định, giải pháp này không ảnh hưởng đến quyền sở hữu nhà ở của người dân do việc đánh thuế đối với nhà ở có tính đến mức độ điều tiết, khả năng nộp thuế của người dân, chỉ điều tiết đối với nhà ở có giá trị lớn, trên ngưỡng không chịu thuế.
“Tại dự thảo Luật thuế tài sản cũng đề xuất quy định các trường hợp miễn, giảm thuế tài sản nhằm thực hiện các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các đối tượng ưu đãi hoặc lĩnh vực khuyến khích đầu tư như: Miễn thuế đối với nhà ở của hộ nghèo, của thương binh, con liệt sỹ không được hưởng trợ cấp hàng tháng, nhà ở xã hội,…”, báo cáo cho biết.
Đối với tác động đến ngân sách nhà nước, theo tính toán của Bộ Tài chính, với mức thuế suất 0,3%, số tiền thuế thu được vào khoảng 22.700 tỷ đồng (nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 1 tỷ đồng) hoặc khoảng 23.300 (nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 700 triệu đồng).
Với mức thuế suất 0,4%, dự kiến số tiền thuế thu được là 30.300 tỷ đồng (nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 1 tỷ đồng) hoặc khoảng 31.000 (nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 700 triệu đồng).
Dù vậy, cơ quan này cũng thừa nhận một số tác động tiêu cực. Cụ thể, việc đánh thuế trên toàn bộ giá trị đất ở với mức thuế suất cao và đánh thuế đối với nhà ở sẽ có tác động đến người dân, đặc biệt là đối với những người có quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, nhà ở có giá trị lớn nhưng không có thu nhập để đóng thuế.
“Để giải quyết vấn đề này, tại Điều 10 dự thảo Luật đã quy định cho phép chậm nộp tiền thuế như sau: Trường hợp người nộp thuế không có khả năng nộp thuế thì được chậm nộp tiền thuế và không tính phạt chậm nộp trong thời gian chậm nộp thuế. Người nộp thuế phải có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trước khi chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản”, Bộ Tài chính cho hay.
Phương Dung
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
Thuế tài sản nhà, đất: “Đánh mạnh vào người giàu, 90% dân không ai phản đối!”
- Published in Tin tức
Thuế tài sản nhà, đất: “Đánh mạnh vào người giàu, 90% dân không ai phản đối!”
Thuế tài sản nhà, đất: “Đánh mạnh vào người giàu, 90% dân không ai phản đối!”
Bộ Tài chính đã công bố Dự thảo tờ trình gửi Chính phủ về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản. Theo đó, Bộ này đề xuất sẽ đánh thuế tài sản đối với đất ở, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất phi nông nghiệp nhưng sử dụng vào mục đích kinh doanh hoặc để ở.
Nhà và công trình trên đất có giá trị trên 700 triệu đồng, ô tô có giá trị từ 1,5 tỷ đồng trở lên, tàu bay, du thuyền… sẽ bị đánh thuế. Mức thuế suất dự kiến ở mức 0,3 hoặc 0,4%. Dự thảo Luật thuế tài sản của Bộ Tài chính nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ người dân và giới chuyên gia.
Xung quan dự án này, PGS. TS Hoàng Văn Cường – Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân, Đại biểu Quốc hội (Uỷ viên Uỷ ban Tài chính – Ngân sách) đã có một số chia sẻ với PV Dân trí.
Mục tiêu thì tốt…
Thưa ông, Bộ Tài chính hiện đang lấy ý kiến về việc xây dựng Dự án Luật Thuế tài sản. Đây là một loại thuế khá phổ biến được nhiều quốc gia áp dụng. Tuy nhiên, theo ông, thuế tài sản liệu có phù hợp với Việt Nam vào thời điểm này hay không?
Thuế tài sản là sắc thuế khá phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới, đóng vai trò quan trọng trong điều tiết hành vi sử dụng, chiếm hữu tài sản cũng như đóng góp nguồn thu ngân sách.
Đối với các loại tài sản hữu hạn thì cần phải có các quy định điều tiết hành vi sở hữu. Điển hình như nhà đất, bất động sản là tài sản hữu hạn, không phải vô hạn nhưng nhu cầu lại là phổ thông, tất cả mọi người đều cần. Do đó, phải sử dụng thuế tài sản để điều chỉnh, hạn chế hành vi chiếm hữu quá nhiều, làm mất cơ hội tiếp cận của người khác.
Rõ ràng, một sắc thuế phổ biến với mục tiêu cơ bản là điều tiết hành vi, tạo ra sự công bằng, cơ hội tiếp cận cho mọi người thì là một sắc thuế tốt. Vậy sắc thuế này có phù hợp với Việt Nam không?
Theo tôi, Việt Nam đang là nước thu nhập chưa cao, thậm chí chúng ta cũng chỉ vừa thoát khỏi ngưỡng nghèo và đang ở ngưỡng trung bình nhưng thấp. Tuy nhiên, giá nhà đất của chúng ta lại rất cao, thậm chí nếu tính tương quan giá nhà đất với thu nhập ở Việt Nam là cao nhất. Vì sao? Bởi trong đấy có lý do hết sức cơ bản là tình trạng đầu cơ, đẩy giá bất động sản, đẩy giá nhà lên.
Dân số Việt Nam đông, nhu cầu sở hữu nhà đất lớn nhưng số lượng nhà ở đất đai có hạn, nếu một nhóm người chiếm hữu quá nhiều sẽ khiến nguồn cung ít đi. Mà cầu nhiều lại là nguyên nhân khiến giá tăng, người đầu cơ hưởng lợi, vô hình chung điều đó khuyến khích thúc đẩy đầu cơ.
Trong bối cảnh đó, nếu như thuế tài sản điều tiết được hành vi chiếm hữu này, hạn chế những người chiếm hữu quá nhiều bất động sản sẽ tạo cơ hội tiếp cận nhà đất cho những người không có nhiều tiền.
Xin ông chia sẻ thêm về lý do tại sao thuế tài sản lại có thể góp phần điều tiết hành vi chiếm hữu tài sản, tạo cơ hội tiếp cận cho nhiều người thu nhập thấp hơn?
Tất nhiên quyền sở hữu tài sản là của công dân, nhà nước không thể dùng biện pháp hành chính cấm. Tuy nhiên, ở đây, anh có quyền mua nhiều nhưng phải nộp thuế cao, nộp thuế cao để buộc anh phải tính toán hạn chế chiếm hữu đi, tạo cơ hội tiếp cận cho người khác. Còn nếu muốn chiếm hữu nhiều thì phải nộp nhiều thuế, khoản thuế đó được tập trung vào ngân sách và để trang trải, đầu tư hạ tầng, nhà mới cho xã hội, tạo cơ hội cho người khác.
Chính vì vậy, nhiều năm qua, các chuyên gia và nhiều người cho rằng, Việt Nam nên áp dụng thuế tài sản. Nếu làm tốt rõ ràng tránh được tình trạng đầu cơ, giá tài sản tăng quá cao, nhiều người chiếm hữu quá nhiều nhà cửa, đất đai.
Tình trạng sở hữu đất đai, nhà cửa mà theo kiểu “kẻ ăn không hết người lần chẳng ra” ở Việt Nam không hề thiếu. Nếu đánh thuế tài sản sẽ buộc họ phải điều tiết.
Như vừa qua, 3 đặc khu kinh tế của chúng ta vừa mới dự kiến hình thành thôi là nhà đầu cơ đã nhảy ra mua đất chờ giá tăng. Họ cứ đổ tiền vào đó bởi dù sau này giá đất tăng hay không tăng họ cũng không phải nộp thêm đồng thuế nào.
Tuy nhiên, nhà đầu cơ có tiền ném ra đấy, ôm hết đất lại thì khi giá lên người dân, Nhà nước hay nhà đầu tư có hưởng lợi không? Dĩ nhiên là không, như các nhà đầu tư, do giá đất tăng lên khiến họ phải bỏ nhiều tiền hơn để đầu tư mặt bằng, đầu tư phát triển, trong khi đáng ra tiền đó có thể dùng để đầu tư kinh doanh. Còn nhà nước thì mất thêm chi phí giải phóng mặt bằng khi đền bù lấy đất thu hút đầu tư.
Hoặc chúng ta nhìn thấy Nhà nước bỏ tiền rất nhiều chỉnh trang đô thị, khi giá đất tăng lên người đầu cơ hưởng lợi, nhà nước hưởng gì? Thôi thì người dân được hưởng lợi cũng được nhưng lại không công bằng bởi những người di dời nhà đi để có con đường đấy thì lại được đền bù thấp, trong khi những xung quang đấy tự nhiên hưởng lợi, như vậy là không công bằng.
Thuế tài sản tạo ra công bằng cho những người sở hữu tài sản, đặc biệt là tài sản hữu hạn. Việt Nam đang mất công bằng nên việc áp dụng thuế tài sản là cần thiết.
… nhưng đề xuất cho cảm giác tận thu
Một sắc thuế như ông phân tích là rất cần thiết và phù hợp với Việt Nam nhưng trên thực tế gặp phải nhiều phản đối từ phía người dân. Vậy theo ông, lý do ở đây là vì sao?
Vấn đề là cách chúng ta điều tiết như thế nào? Dự thảo lấy ý kiến của Bộ Tài chính chịu phản ứng của đông đảo vì cách tiếp cận mục tiêu điều tiết không có, không nhìn thấy người chiếm hữu nhiều tài sản phải đóng thuế nhiều trong khi người sử dụng ít, tối thiểu như người thu nhập thấp vay tiền mua nhà ở xã hội giờ cũng nằm trong đối tượng chịu thuế.
Có một số đối tượng họ được miễn thuế nhưng ở đây là nhà nước đặt ra chính sách miễn thuế, còn họ vẫn là đối tượng chịu thuế. Khác nhau hoàn toàn, người ta phản đối với lý lẽ rằng “tôi không cần xin, tại sao tôi phải xin nhà nước miễn thuế”.
Như vậy, chúng ta đang áp dụng cơ chế làm tất cả mọi người phải chịu gánh nặng đóng thuế. Cách đưa ra như thế khiến người ta cảm giác tận thu nên phản đối là điều dễ hiểu.
Vậy trong bối cảnh Việt Nam phải tính thuế như thế nào thì phù hợp, thưa ông?
Kinh nghiệm các nước thì đúng là nhiều nước bất kể người nào sở hữu tài sản đều phải nộp thuế nhưng với Việt Nam có nên không? Có nước bắt đầu từ khởi điểm nào đó mới phải nộp thuế? Đây mới là vấn đề chúng ta nên học kinh nghiệm, áp dụng kinh nghiệm nào?
Dự thảo đưa ra khởi điểm 700 triệu đồng, trên thực tế làm gì có cái nhà nào dưới 700 triệu. Còn dự thảo tính dựa trên suất đầu tư là sai lầm của Bộ Tài chính. Đánh thuế lại đưa ra công thức tính giá không thật, tính thuế phải tính đúng giá thật. Nhà nào là nhà dưới 700 triệu, có thể 1 căn chung cư rất bình thường có giá trên 700 triệu đồng nhưng 1 căn biệt thự rất đẹp cũng dưới 700 triệu đồng.
Chúng ta phải tính dựa trên giá trị thật đi, còn tại sao không làm được thì phải nghĩ, không thể vì chưa đánh giá đúng giá trị lại dùng những cái méo mó lệch lạc. Như vậy thì chính sách sai.
Với sắc thuế này, hãy tính ra giá trị trung bình của xã hội là bao nhiêu, dưới mức đó không phải nộp thuế còn những người nào đang chiếm hữu nhiều hơn mức trung bình thì phải đóng góp vào ngân sách để đầu tư phát triển, tạo cơ hội tiếp cận nhà cho người khác.
Vậy người dân có phản đối không? Tôi nghĩ những người ở mức trung bình trở xuống người ta thấy như thế không tạo sức ép, không ảnh hưởng thì sẽ không còn phản đối.
Còn người chiếm hữu nhiều tài sản thì không chỉ mức thuế 0,4% mà phải luỹ tiến như nhiều nước đưa ra với dạng bất động sản cao cấp, xa xỉ. Nếu đưa ra chính sách luỹ tiến với những đối tượng như thế rõ ràng người dân nhìn thấy mục tiêu là điều tiết những người đang chiếm hữu quá nhiều tài sản của xã hội. Vậy thì làm gì có ai phản đối. Có chăng chỉ là 10% người giàu phản đối chứ 90% người dân Việt Nam sẽ đồng tình.
Nếu đưa ra chính sách như thế cũng đừng lo ngại nguồn thu ít, có khi còn nhiều hơn. Vì hiện đang áp dụng đại trà, người dân đang đóng vài triệu mỗi năm trong bối cảnh thu nhập bình quân hiện nay thì sức ép quá lớn bởi thu nhập bình quân đầu người của chúng ta cũng mới chỉ có 2.400 USD/năm.
Trong khi đó, nếu thu đại trà như hiện nay thì phải chi phí cho công tác thu phí nhiều. Hiện nếu phải thu 90 triệu dân thì chi phí cho bộ máy rất lớn nhưng chỉ nhắm vào đối tượng chiếm hữu nhiều thì đối tượng thu thuế sẽ ít đi, chi phí hành chính ít, hiệu quả hơn rất nhiều.
Như vậy, không chỉ người dân đồng tình mà nguồn thu cũng tăng. Đương nhiên sẽ có tác động đến hành vi đầu cơ, tác động tới việc mua nhà đất chờ tăng giá khiến thị trường minh bạch, lành mạch, giá nhà đất bình ổn hơn. Rõ ràng việc đó là tốt cho xã hội, như vậy mới đúng nghĩa tạo ra lành mạnh cho xã hội trong khi tạo nguồn thu ngân sách.
Phương Dung
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
HoREA: Đề xuất mức thuế tài sản đối với nhà 700 triệu đồng chưa thỏa đáng
- Published in Tin tức
HoREA: Đề xuất mức thuế tài sản đối với nhà 700 triệu đồng chưa thỏa đáng
HoREA: Đề xuất mức thuế tài sản đối với nhà 700 triệu đồng chưa thỏa đáng
(Xây dựng) – Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) vừa có văn bản gửi Thủ tướng, các Bộ Tài chính, Tư pháp và Tổng cục Thuế để kiến nghị một số nội dung liên quan đến việc Bộ Tài chính đề xuất ban hành Luật Thuế tài sản.
HoREA cho rằng Luật Thuế tài sản được áp dụng ở đa số các nước trên thế giới, là nguồn thu quan trọng, ổn định và bền vững của ngân sách, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Nước ta hiện nay chưa thu thuế nhà ở, chỉ có thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Mức thuế phải nộp nhìn chung là thấp nên HoREA cho rằng cần thiết xây dựng Luật Thuế tài sản, trong đó, có thuế đất ở, nhà ở, nhất là trong giai đoạn sau năm 2020.
Tuy nhiên, có điểm khác biệt cơ bản là ở các nước khác thì đất đai thuộc sở hữu tư nhân, không có khoản thu ngân sách “tiền sử dụng đất” như ở nước ta. “Tiền sử dụng đất” hiện nay không phải là một sắc thuế vì đang được quy định bởi Luật Đất đai, và là một nguồn thu quan trọng của ngân sách. “Tiền sử dụng đất” đang là “ẩn số”, là “gánh nặng”, cách tính tiền sử dụng đất đang tạo ra cơ chế “xin – cho”, nhũng nhiễu và doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất thủ tục hành chính này. “Tiền sử dụng đất” đang chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá thành nhà ở. Do vậy, HoREA cho rằng cần thiết xây dựng dự án Luật Thuế tài sản (đánh thuế đất ở, nhà ở) cần đi đôi với việc sửa đổi chính sách và cơ chế tính “tiền sử dụng đất”.
Ngoài ra, Luật Thuế tài sản nếu được ban hành tại thời điểm hiện nay sẽ có tác động rất lớn đối với thị trường bất động sản và người tiêu dùng. HoREA quan ngại nếu thu thuế sẽ xảy ra tình trạng “thuế chồng thuế”.
Hiệp hội tán thành việc áp dụng mức thuế suất 1% (thậm chí là cao hơn) đối với đất sử dụng không đúng mục đích; đất và nhà không đưa vào sử dụng. HoREA tán thành áp dụng mức thuế suất 2% đối với đất và nhà lấn, chiếm. Mục đích là khuyến khích đưa nhà, đất vào sử dụng, tránh lãng phí, chống bao chiếm, đầu cơ nhà, đất hoặc để răn đe các trường hợp vi phạm pháp luật. HoREA cho rằng việc áp dụng miễn thuế cho nhà từ 700 triệu đồng trở xuống là chưa thỏa đáng và đề nghị áp dụng thuế suất 0% đối với nhà ở có giá trị từ 1 tỷ đồng trở xuống để hỗ trợ thiết thực cho những người có thu nhập trung bình thấp và người có thu nhập thấp trong xã hội. Đồng thời, kiến nghị miễn hoặc tối thiểu giảm 50% số thuế nhà đất phải nộp đối với các vườn ươm khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp để khuyến khích khởi nghiệp, lập nghiệp và đổi mới sáng tạo.
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
- Published in Tin tức