Vì sao Bộ Tài chính chọn 700 triệu đồng là ngưỡng không chịu thuế nhà?
Vì sao Bộ Tài chính chọn 700 triệu đồng là ngưỡng không chịu thuế nhà?
Hiện tại, Bộ Tài chính đang nghiêng về phương án thuế suất 0,4% và ngưỡng không chịu thuế với nhà là 700 triệu đồng.
Bộ Tài chính vừa lấy ý kiến về Dự án Luật Thuế tài sản với 2 phương án về ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 700 triệu đồng hoặc 1 tỷ đồng. Bộ Tài chính cũng đưa ra 2 phương án về thuế suất là 0,3% hoặc 0,4%. Đồng thời, những người sở hữu sẽ phải nộp thuế 0,3% đến 0,4% đối với toàn bộ giá trị đất.
Hiện tại, Bộ Tài chính đang nghiêng về phương án thuế suất 0,4% và ngưỡng không chịu thuế với nhà là 700 triệu đồng.
Sau khi dự thảo của Bộ Tài chính được công bố đã có nhiều ý kiến trái chiều bình luận về dự thảo này. Một trong số những điểm còn khiến nhiều người thắc mắc chính là ngưỡng không chịu thuế đối với nhà được cơ quan soạn thảo tính toán như thế nào?
Vì sao lại là 700 triệu đồng?
Theo Bộ Tài chính, hiện có 2 cách xác định ngưỡng không chịu thuế để đánh thuế là xác định ngưỡng không chịu thuế theo giá trị hoặc xác định ngưỡng không chịu thuế theo diện tích.
Lý giải về phương án ngưỡng chịu thuế xác định theo giá trị, Bộ Tài chính cho biết, theo Quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 31/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 thì diện tích nhà ở bình quân toàn quốc theo mục tiêu đến năm 2020 đạt 25m2 sàn/người. Do đó nếu tính một hộ gia đình trung bình là 4 người thì diện tích nhà trung bình cho một hộ gia đình khoảng 100m2.
Theo quy định của pháp luật về xây dựng thì suất vốn đầu tư xây dựng nhà ở bình quân khoảng 7.300.000 đồng/m2 (suất vốn đầu tư xây dựng là căn cứ UBND tỉnh xây dựng và ban hành giá 1m2 nhà xây dựng mới). Khi đó, giá trị xây dựng mới của căn nhà 100m2 bình quân khoảng 730 triệu đồng.
Do đó, Bộ Tài chính xây dựng phương án thuế suất thuế tài sản đối với nhà thuộc đối tượng chịu thuế theo 2 phương án là lấy ngưỡng không chịu thuế là 700 triệu đồng hoặc lấy ngưỡng không chịu thuế là 1 tỷ đồng.
Bộ này cho hay, việc sở dĩ không chọn phương án áp dụng ngưỡng không chịu thuế theo diện tích bởi phương án này có nhược điểm là điều tiết cả đối với người sử dụng nhà có giá trị không lớn, nhà đơn sơ, nhà thiếu kiên cố, nhà tại nông thôn có diện tích vượt ngưỡng không chịu thuế nhưng giá trị thấp; trong khi đó lại không điều tiết đối với nhà có giá trị lớn nhưng diện tích nằm trong ngưỡng không chịu thuế.
Ví dụ: theo số liệu về nhà ở năm 2011 tại Đề án Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế theo diện tích là 100m2 thì sẽ có khoảng 1.883.913 căn bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố, nhà đơn sơ (trong đó có 1.131.073 căn ở nông thôn) vẫn phải chịu thuế.
Bộ Tài chính cho rằng, việc áp dụng ngưỡng không chịu thuế theo giá trị nhằm đảm bảo mục tiêu của thuế tài sản, không điều tiết đối với nhà có giá trị dưới ngưỡng không chịu thuế, điều tiết cao đối với nhà có giá trị lớn, đảm bảo công bằng xã hội (chỉ tính thuế đối với nhà có giá trị vượt ngưỡng không chịu thuế). Đồng thời, sẽ phân biệt được các loại nhà khác nhau (đơn giá xây dựng mới 1m2 nhà biệt thự, nhà ở cấp I cao hơn rất nhiều đơn giá xây dựng mới 1m2 nhà ở cấp III, cấp IV).
Do đó, Bộ Tài chính lấy ngưỡng không chịu thuế theo giá trị để đánh thuế tài sản đối với nhà.
90% nhà nông thôn dưới ngưỡng chịu thuế?
Đánh giá về tác động của Luật thuế tài sản trên, ông Phạm Đình Thi chia sẻ, nhà ở là nhu cầu thiết yếu của tất cả mọi người. Vậy nên, Luật Thuế tài sản sẽ tác động tới mọi người dân.
Đối với nhà, không thể xác định giá trị thực tế bởi cùng một cấp nhà, cùng một công xây dựng, hoàn thiện xong giữa mỗi ngôi nhà vẫn có sự chênh lệch. Vậy nên, cơ quan thuế tính theo suất đầu tư do Bộ Xây dựng ban hành.
Giải thích về mức đánh thuế tài sản nhà trên 700 triệu đồng, ông Phạm Đình Thi phân tích, đối với nhà, giá trị nằm chủ yếu ở phần đất. Ở TPHCM, có căn nhà trị giá vài triệu USD, trong khi ở nông thôn có căn nhà chỉ trị giá 100 – 200 triệu đồng.
“Chúng tôi đề xuất phương án tính thuế tài sản với nhà theo ngưỡng, tất cả mọi người bình quân như nhau. Tôi lấy ngưỡng theo giá trị là 700 triệu đồng hoặc 1 tỷ đồng thì ai vượt phần giá trị nhà, trên ngưỡng phải nộp thuế. Dưới ngưỡng thì không phải nộp thuế. Với mốc 700 triệu đồng thì đại bộ phận có thể trên 90% toàn bộ nhà nông thôn không thuộc đối tượng hay nói là dưới ngưỡng đánh thuế”, ông Thi nói.
Bộ Tài chính cho rằng, việc đánh thuế tài sản nhà trên 700 triệu đồng trở lên thì những nhà có giá trị dưới mức này không bị đánh thuế, đó là người sở hữu nhà có giá trị không lớn, có thu nhập thấp và trung bình, không điều tiết với nhà đơn sơ, thiếu kiên cố, nhà cấp 4, không điều tiết đối với hầu hết nhà tại nông thôn, nhà cấp 2.
Bộ này cũng nhận định việc áp dụng thuế tài sản với đất, nhà ở tác động không đáng kể đến thị trường bất động sản bởi mức 0,3% – 0,4% là khá thấp. Tuy nhiên, với nhiều nhà ở vị trí đắc địa thì phải nộp thuế rất cao vì đắc địa thì bản thân đất đã sinh lời lớn. Chẳng hạn, nhà 100m2 ở ngay Trần Hưng Đạo giá cho thuê một tháng đã rất lớn.
Tầng lớp trung lưu bị ảnh hưởng
Chia sẻ quan điểm trên trang cá nhân về Dự án Luật thuế tài sản, TS Đinh Tuấn Minh cho rằng, một trong những lý do chính cho việc cổ vũ áp dụng thuế tài sản là tính công bằng. Người giàu sở hữu nhiều tài sản nên đánh thuế tài sản thì người giàu sẽ phải trả nhiều thuế hơn và nhà nước sẽ dùng thuế này để điều tiết lại cho người nghèo.
Tuy nhiên, theo ông Minh, khoản tiền thuế người giàu nộp thuế cho nhà nước nhiều hơn so với người trung lưu nhưng khả năng trả thuế tài sản của người trung lưu thấp hơn rất nhiều so với người giàu. Rõ ràng là loại thuế này là loại thuế khiến cho tầng lớp trung lưu bị cào bằng xuống tình trạng vô sản chứ không phải là sự công bằng đích thực.
Vị chuyên gia lấy ví dụ với trường hợp một người làm việc cật lực và mua được một ngôi nhà hay một căn hộ trị giá 3-4 tỷ đồng. Hằng năm phải nộp khoản thuế là 7-9 triệu đồng.
“Khi còn sung sức bạn có thể làm việc có thu nhập tương đối tốt, nuôi gia đình và vẫn trả được khoản thuế đó. Nhưng vì một lý do nào đó thu nhập của bạn bị giảm sút hoặc đơn giản là khi bạn về hưu, bạn sẽ không có tiền trả thuế. Và thế là bạn nợ thuế nhà nước. Và để thu thuế, nhà nước sẽ tìm cách cưỡng chế bắt bạn bán nhà để trả thuế. Bạn sẽ trở thành người không có nhà và phải đi thuê nhà để ở”, ông Minh cho biết.
Phương Dung
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
- Published in Tin tức
Bốn lý do giá đất sốt cao nhưng khó giảm
Bốn lý do giá đất sốt cao nhưng khó giảm
Người ôm đất tưởng giá tăng lên, thật ra khoản chênh lệch phản ánh chỉ số trượt giá đồng tiền theo thời gian.
Phó trưởng khoa Kinh doanh quốc tế – Marketing Đại học Kinh tế TP HCM, Huỳnh Phước Nghĩa cho biết ít nhất 4 nguyên lý cơ bản khiến cho những cơn sốt đất qua đi song giá đất khó quay về vùng đáy trước đây.
Trượt giá hàng năm tích tụ trong giá đất
Theo chuyên gia này, giá bất động sản nói chung và giá đất nói riêng chỉ phản ánh sự tăng lên của lạm phát và chi phí xây dựng ngày càng cao hơn. Điều này cũng đúng với vàng và các hàng hóa khác. Tuy nhiên, khác với vàng, bất động sản có thể cho thuê, khai thác để kiếm về một khoản thu nhập. Với bất động sản liền thổ, sốt đất phản ảnh rõ nét sự tích tụ của trượt giá đồng tiền qua từng năm.
Trong 20 năm qua, tính bằng đơn vị thập niên, giá đất tại TP HCM không hề giảm. Nhưng sự tăng giá này có nguyên nhân sâu xa, đó là giá trị đồng tiền cách đây vài thập niên đã thay đổi nên giá đất vì thế cũng thay đổi theo. Như vậy, không phải là giá đất tăng lên mà là tỷ lệ trượt giá đã tích tụ trong khoảng thời gian tính bằng thập niên đã đội lên rất cao. Do có khả năng chống trượt giá, đầu tư đất được xem là một kênh trú ẩn an toàn.
Hiện nay thị trường bất động sản trở nên bất thường, khó đoán, làm dấy lên những quan ngại về bong bóng giá. Thế nhưng, có một nguyên lý tham chiếu là thị trường sẽ trở về đúng với xu thế tự nhiên khi bất động sản không tăng giá cao hơn mức độ trượt giá.
Đất nền thuộc khu Cát Lái, quận 2, TP HCM. Ảnh: Dothi.net
Chi phí liên quan đến đất đai ngày càng tăng cao
Ngoài tỷ lệ trượt giá, bong bóng giá đất còn tích tụ trong hàng loạt những chi phí khác liên quan đến tài sản này. Đó là xây dựng hạ tầng giao thông và hạ tầng xã hội, chuyển mục đích sử dụng, hoàn tất thủ tục pháp lý… Ngay cả nhân công tăng lên, giá vật tư leo thang, vốn vay làm hạ tầng, chi phí mặt bằng ngày càng đắt đỏ cũng được cộng dồn vào giá đất.
Do các chi phí đầu vào hình thành nên tài sản này không ngừng đội lên nên giá đất rất khó sụt giảm về vùng đáy cũ sau mỗi cơn nóng sốt. Tất nhiên, nếu chi phí liên quan đến quá trình hình thành khu đất ở mức cực thấp thì khả năng điều chỉnh giá có thể diễn ra khi thị trường bước vào chu kỳ khủng hoảng.
Cuộc chiến tích trữ đất đai lên đến đỉnh điểm
Việt Nam là một thị trường bất động sản đặc biệt, ở đó tài sản gắn liền với đất trong ý thức hệ của người dân là hàng hóa thiết yếu của cả một đời người. Mảnh đất cần thiết như các mặt hàng nhu yếu phẩm, xếp ngang hàng với nhu cầu ăn, mặc là nhu cầu ở. Điều này tạo nên kịch bản tích trữ đất, gom đất và ôm đất càng nhiều càng tốt. Trong 4 năm qua, làn sóng thu gom đất đã lên đến đỉnh điểm, sóng sau cao hơn sóng trước.
Do nhu cầu tăng lên trong khi nguồn cung hạn chế đã khiến tài sản này trở nên ngày càng khan hiếm. Thông thường, cái gì khan hiếm thì giá cao, lập đỉnh và rất khó quay trở về vùng đáy trước đó.
Mật độ dân cư sẽ phản ánh đúng giá đất
Những khu vực nào từng diễn ra sốt đất và duy trì cột giá cao bền vững theo thời gian thì đó chính là giá trị thật tương đối của tài sản. Tác nhân giúp duy trì giá đất chính là mật độ dân cư đông đúc. Những khu vực có tốc độ đô thị hóa cao, hình thành cộng đồng dân cư hoàn chỉnh, hạ tầng đồng bộ, thường khó bị sụt giảm giá sau những cơn sốt đất đỉnh điểm.
Tính năng tiêu dùng của bất động sản hay mật độ dân cư thường phản ánh được nhu cầu đất đai tại khu vực nào đó là thật hay ảo. Theo ông Nghĩa, nếu nhà đầu tư thu gom đất vô tội vạ và bỏ qua nguyên lý thứ tư này, rất có thể họ đang tích tụ bong bóng giá đất.
Bài viết liên quan:
- Published in Tin tức
Ý nghĩa các loại bản đồ 1/500, 1/2.000, 1/5.000
Ý nghĩa các loại bản đồ 1/500, 1/2.000, 1/5.000
TTO – Nhiệm vụ, ý nghĩa của các loại bản đồ theo từng tỉ lệ 1/50.000, 1/25.000, 1/5.000, 1/2.000, 1/500… như thế nào không phải ai cũng biết, nhất là với những người chưa “đụng chuyện” liên quan đến lĩnh vực xây dựng, bồi thường, giải tỏa.

Các dự án chỉ được xây dựng sau khi có quy hoạch chi tiết tỉ lệ 1/500. Trong ảnh là một góc khu đô thị mới Thủ Thiêm – Ảnh: QUANG ĐỊNH
Vụ “thất lạc” bản đồ quy hoạch 1/5.000 khu đô thị mới Thủ Thiêm mới đây khiến nhiều người dân tự hỏi: Bản đồ quy hoạch có ý nghĩa gì mà gây tranh cãi dữ vậy?
Ý nghĩa và nhiệm vụ của từng loại bản đồ được quy định cụ thể tại các văn bản luật và dưới luật về quy hoạch, xây dựng và có tính bắt buộc các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan phải có trách nhiệm tuân thủ.
Quy hoạch bắt buộc phải có bản đồ
Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, phần giải thích từ ngữ (điều 3) định nghĩa: “Quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở để tạo lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch đô thị”.
Khoản 6, điều 3 giải thích: “Đồ án quy hoạch đô thị là tài liệu thể hiện nội dung của quy hoạch đô thị, bao gồm các bản vẽ, mô hình, thuyết minh và quy định quản lý theo quy hoạch đô thị”. Có nghĩa là các bản vẽ (bản đồ) là tài liệu bắt buộc phải có trong mỗi đồ án quy hoạch.
Điều 23 luật này quy định nhiệm vụ của quy hoạch chung là xác định tính chất, vai trò của đô thị, yêu cầu cơ bản cho việc nghiên cứu để khai thác tiềm năng, động lực phát triển, hướng phát triển, mở rộng đô thị, bố trí hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị trong nội thị và khu vực ngoại thị.
Trong khi đó, nhiệm vụ của quy hoạch phân khu phải xác định phạm vi ranh giới, diện tích, tính chất khu vực lập quy hoạch, chỉ tiêu dự kiến về dân số, sử dụng đất, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật; yêu cầu, nguyên tắc cơ bản về phân khu chức năng để bảo đảm phù hợp về không gian kiến trúc, đấu nối hạ tầng kỹ thuật với quy hoạch chung đã được phê duyệt và các khu vực xung quanh.
Riêng nhiệm vụ quy hoạch chi tiết phải xác định giới hạn về chỉ tiêu sử dụng đất, dân số; yêu cầu, nguyên tắc về tổ chức không gian kiến trúc, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật trong khu vực lập quy hoạch, bảo đảm phù hợp với quy hoạch chung, quy hoạch phân khu đã được phê duyệt và khu vực xung quanh.
Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của từng đồ án (quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết) mà các bản đồ được quy định tỉ lệ tương ứng.
Chẳng hạn, khoản 2 điều 25 Luật quy hoạch đô thị quy định: “Bản vẽ của đồ án quy hoạch chung thành phố trực thuộc trung ương được thể hiện theo tỉ lệ 1/25.000 hoặc 1/50.000. Đồ án quy hoạch phải thể hiện rõ khu vực nội thị và các khu vực dự kiến phát triển”.
Tương tự, tỉ lệ bản đồ quy hoạch chung đối với thành phố thuộc tỉnh, thị xã là 1/10.000 hoặc 1/25.000 (khoản 2 điều 26) và đối với thị trấn là 1/5.000 hoặc 1/10.000 (khoản 2, điều 27).
Ý nghĩa của một số loại bản đồ
Bản đồ quy hoạch chung tỉ lệ 1/5.000 có giá trị xác định các khu vực chức năng, những định hướng tính giao thông, sẽ rõ ràng mốc giới, địa giới của các phần đất dành để phát triển hạ tầng đường, cầu, cống, điện, trường học, khu dân cư, cây xanh, hồ nước…
Có thể nói, bản đồ quy hoạch 1/5.000 là cơ sở gốc để xác định mục tiêu phát triển, kêu gọi đầu tư cũng như vấn đề giải phóng mặt bằng, đền bù, di dân…
Bản đồ quy hoạch phân khu tỉ lệ 1/2.000 nhằm phân chia và xác định chức năng sử dụng đất và mạng lưới công trình hạ tầng nhằm cụ thể hóa nội dung của quy hoạch chung đô thị.

Bản đồ quy hoạch sử dụng đất phân khu 1/2.000 khu đô thị mới Thủ Thiêm – Ảnh: BQL KĐTMTT
Nội dung của quy hoạch phân khu bao gồm: xác định phạm vi ranh giới, diện tích, tính chất khu vực lập quy hoạch, chỉ tiêu dự kiến về dân số, sử dụng đất, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đối với từng ô phố và đấu nối hạ tầng kỹ thuật chung; xác định chức năng sử dụng đất cho từng khu đất; nguyên tắc tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan và đánh giá tác môi trường chiến lược.
Mặt khác quy hoạch này có nhiều nội dung xác định vị trí công trình kỹ thuật và ranh giới trên đất. Do đó quy hoạch này liên quan mật thiết với quyền sờ hữu về đất đai (về quyền sử dụng đất), vì vậy nó có giá trị pháp lý cao, nó là căn cứ để giải quyết tranh tụng.
Bản đồ quy hoạch chi tiết xây dựng tỉ lệ 1/500 cụ thể hóa nội dung quy hoạch phân khu và quy hoạch chung.
Bản đồ quy hoạch chi tiết bố trí cụ thể tất cả các công trình trên đất. Về hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch chi tiết bố trí đến từng ranh giới lô đất.
Nói cách khác, bản đồ quy hoạch chi tiết 1/500 chính là quy hoạch tổng mặt bằng của các dự án dầu tư xây dựng, là cơ sở để định vị công trình, thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật xây dụng công trình và thực hiện xây dựng.
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
- Published in KIẾN THỨC BĐS, Tin tức
Quy định về thời hạn sử dụng chung cư tại Việt Nam?
Quy định về thời hạn sử dụng chung cư tại Việt Nam?
Theo quy định tại điều 123, luật Nhà ở 2014: “Việc mua bán nhà ở phải lập thành hợp đồng có công chứng. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bán thực hiện bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với nhà ở đó trong một thời hạn nhất định cho bên mua”.
Tại khoản 1 điều 98, luật Nhà ở 2014 quy định: “Nhà chung cư được phân thành nhiều hạng khác nhau để xác định giá trị của nhà chung cư khi thực hiện quản lý hoặc giao dịch trên thị trường”.
Về mức độ phân hạng cần căn cứ theo thông tư 31/2016/TT-BXD, theo đó, mỗi công trình căn hộ được phân thành 3 hạng A, B, C, tùy vào mật độ xây dựng, khả năng tiếp cận phương tiện giao thông công cộng đô thị, bình quân diện tích sử dụng căn hộ trên số phòng ngủ tối thiểu,…
Việc phân hạng chung cư được cơ quan quản lý công nhận sẽ tránh việc tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến mức giá dịch vụ, quản lý chung cư. Đây là cơ sở để áp dụng mức giá dịch vụ quản lý, vận hành chung cư theo khung giá đã được UBND cấp tỉnh ban hành.
Thời hạn sử dụng nhà chung cư theo đó cũng được phân thành nhà chung cư sở hữu lâu dài và nhà chung cư sở hữu có thời hạn, tùy thuộc vào phân loại công trình, chất lượng công trình đối với từng dự án đầu tư và được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
Cũng như những tài sản khác, khi trải qua một thời gian dài sử dụng, do các tác động khách quan từ thiên nhiên và tác động chủ quan từ phía người sử dụng, các căn hộ chung cư đến lúc sẽ xuống cấp, hư hỏng, nếu tiếp tục sử dụng sẽ nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy, sau một thời gian sử dụng, nhà chung cư được kiểm định căn cứ vào cấp công trình xây dựng.
Niên hạn sử dụng nhà chung cư
Khoản 1, điều 99, luật Nhà ở 2014 quy định: “Thời hạn sử dụng nhà chung cư được xác định căn cứ vào cấp công trình xây dựng và kết luận kiểm định chất lượng của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà chung cư”.
Cách tính thời hạn theo cấp công trình xây dựng dựa trên phụ lục phân cấp các loại công trình xây dựng phục vụ công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng được ban hành kèm theo Thông tư số 10/2013/TT-BXD ngày 25/7/2013 của Bộ xây dựng, quy định:
Công trình cấp 4 có niên hạn sử dụng dưới 20 năm;
Công trình cấp 3 có niên hạn sử dụng từ 20 năm đến dưới 50 năm;
Công trình cấp 2 có niên hạn sử dụng từ 50 năm đến 100 năm;
Công trình cấp 1 và công trình đặc biệt có niên hạn sử dụng trên 100 năm.
Khi nhà chung cư hết thời hạn sử dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh phải tổ chức kiểm định chất lượng công trình nhà chung cư này để xử lý.
Việc tổ chức kiểm định cũng được thực hiện trong trường hợp nhà bị hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ, không bảo đảm an toàn cho người sử dụng (Khoản 2 Điều 99 Luật Nhà ở 2014).
Quy định về thời hạn sử dụng chung cư phụ thuộc vào cấp công trình như trên đã phần nào tạo thêm cơ hội cho chính sách đầu tư vào thị trường bất động sản của các nhà đầu tư, đồng thời cũng khuyến khích các họ mạnh dạn trong việc bỏ đồng vốn xây dựng các công trình có chất lượng, phù hợp quy chuẩn, qua đó đem lại cuộc sống an toàn, bền vững cho các hộ dân.
Hết niên hạn sử dụng nhà chung cư
Tại điểm a, khoản 2, điều 99, luật Nhà ở 2014 có quy định trường hợp nhà chung cư còn bảo đảm chất lượng và an toàn cho người sử dụng thì chủ sở hữu được tiếp tục sử dụng theo thời hạn ghi trong kết luận kiểm định. Trừ trường hợp nhà chung cư bị hư hỏng mà chưa thuộc diện bị phá dỡ nhưng nằm trong khu vực phải thực hiện cải tạo, xây dựng đồng bộ với khu nhà ở thuộc diện bị phá dỡ theo quy hoạch xây dựng được phê duyệt.
Còn đối với trường hợp nhà chung cư bị hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ, không còn bảo đảm an toàn cho người sử dụng thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh phải ban hành kết luận kiểm định chất lượng và báo cáo UBND cấp tỉnh để thông báo bằng văn bản cho chủ sở hữu nhà ở. Nội dung văn bản thông báo phải được công bố công khai trên cổng thông tin điện tử của UBND và cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh, trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương.
Chủ sở hữu nhà chung cư có trách nhiệm phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mới hoặc bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền để phá dỡ và xây dựng công trình khác theo quy định tại khoản 3 điều 99 luật nhà ở 2014 khi hết niên hạn sử dụng nhà ở.
Cũng theo quy định tại khoản 3 của bộ luật này, trong trường hợp nếu khu đất có nhà chung cư vẫn phù hợp với quy hoạch xây dựng nhà ở thì chủ sở hữu được cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mới.
Nếu khu đất có nhà chung cư không còn phù hợp với quy hoạch xây dựng nhà ở thì chủ sở hữu nhà chung cư phải bàn giao lại nhà chung cư này cho cơ quan có thẩm quyền để phá dỡ và xây dựng công trình khác theo quy hoạch được duyệt.
Quyền lợi của người có quyền sở hữu nhà chung cư
Tại Nghị định 99/2015/NĐ-CP (quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật nhà ở) có quy định các chủ sở hữu có nhà chung cư thuộc diện phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì được bố trí tái định cư.
Việc bố trí tái định cư bằng nhà ở được thực hiện thông qua hợp đồng cho thuê, cho thuê mua, mua bán nhà ở ký giữa người được bố trí tái định cư với đơn vị được giao bố trí tái định cư nếu do Nhà nước đầu tư; ký với chủ đầu tư dự án nếu do doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đầu tư xây dựng.
Nếu chủ sở hữu không có nhu cầu tái định cư tại chỗ thì tùy theo điều kiện cụ thể của địa phương mà được bố trí nhà ở, đất ở tái định cư theo quy định tại điều 36 của luật Nhà ở 2014. Trường hợp chủ sở hữu có nhu cầu tái định cư tại chỗ thì được bố trí nhà ở mới có diện tích tối thiểu bằng hoặc lớn hơn diện tích nhà ở cũ.
Trường hợp Nhà nước đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì chủ đầu tư dự án phải lo chỗ ở tạm thời hoặc thanh toán tiền để người được tái định cư tự lo chỗ ở trong thời gian cải tạo, xây dựng lại.
Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và chủ sở hữu thỏa thuận đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì việc bố trí chỗ ở tạm thời của chủ sở hữu trong thời gian cải tạo, xây dựng lại cũng như việc thanh toán giá trị chênh lệch được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên.
Khi nhà nước đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mà có chênh lệch về giá trị giữa nhà ở cũ và nhà ở mới thì việc thanh toán giá trị chênh lệch được thực hiện theo phương án bố trí tái định cư đã được phê duyệt.
Như vậy, quyền lợi của chủ sở hữu căn hộ chung cư đã được đảm bảo hơn. Qua đó, các hộ gia đình, cá nhân sẽ an tâm hơn khi lựa chọn nhà chung cư làm nơi an cư lạc nghiệp.
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
Bộ Tài chính: “Đánh thuế tài sản góp phần giảm giá nhà, đất”
- Published in Tin tức
Bộ Tài chính: “Đánh thuế tài sản góp phần giảm giá nhà, đất”
Bộ Tài chính: “Đánh thuế tài sản góp phần giảm giá nhà, đất”
Luật Thuế tài sản sẽ góp phần đưa giá nhà về mức đáp ứng đúng nhu cầu và khả năng thanh toán thực tế của người dân?
Sau buổi họp báo gây xôn xao dư luận cách đây 5 hôm, chiều 17/4, Bộ Tài chính vừa tiếp tục công bố chi tiết góp ý dự thảo xin ý kiến hồ sơ lập đề nghị xây dựng dự án Luật thuế tài sản, trong đó có báo cáo đánh giá tác động dự án đến thị trường bất động sản.
Theo đó, Bộ Tài chính đánh giá, Luật Thuế tài sản sẽ có tác động trực tiếp trong ngắn hạn là việc đánh thuế đối với tài sản, đặc biệt là mở rộng đối tượng chịu thuế là nhà ở sẽ góp phần điều chỉnh hành vi đầu cơ nhà, đất, từ đó góp phần giảm giá nhà, đất, đáp ứng đúng nhu cầu và khả năng thanh toán thực tế của người dân.
“Có thể khẳng định rằng, thuế không phải là công cụ duy nhất ngăn chặn các hoạt động đầu cơ về nhà đất nhưng thuế là một công cụ tài chính hữu hiệu góp phần hạn chế hành vi đầu cơ của các nhà đầu tư”, Bộ Tài chính cho biết.
Về dài hạn, theo Bộ Tài chính, chính sách này sẽ mang đến “rất nhiều lợi ích” cho nền kinh tế, góp phần điều chỉnh hành vi đầu cơ, tích trữ bất động sản, phản ánh thật cung – cầu về nhà đất trên thị trường, góp phần giúp thị trường bất động sản minh bạch và phát triển lành mạnh, bền vững, khuyến khích nguồn tiền đầu tư vào bất động sản chuyển sang thành nguồn vốn đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế.
Đánh thuế nhà cũng được coi là công cụ để điều chỉnh phân bố dân cư trong quá trình đô thị hóa.
Ngoài ra, cơ quan soạn thảo cho rằng, Luật Thuế tài sản ra đời nhằm phù hợp với thực tế tại Việt Nam là những người sở hữu nhiều nhà, đất là những người có tiềm lực về tài chính, giải pháp có quy định mức thuế suất cao hơn đối với đất sử dụng không đúng mục đích; đất và nhà ở không đưa vào sử dụng để khuyến khích hơn nữa việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nhà, đất. Quy định nêu trên cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, được nhiều nước trên thế giới áp dụng và thành công.
Đồng thời khẳng định, giải pháp này không ảnh hưởng đến quyền sở hữu nhà ở của người dân do việc đánh thuế đối với nhà ở có tính đến mức độ điều tiết, khả năng nộp thuế của người dân, chỉ điều tiết đối với nhà ở có giá trị lớn, trên ngưỡng không chịu thuế.
“Tại dự thảo Luật thuế tài sản cũng đề xuất quy định các trường hợp miễn, giảm thuế tài sản nhằm thực hiện các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các đối tượng ưu đãi hoặc lĩnh vực khuyến khích đầu tư như: Miễn thuế đối với nhà ở của hộ nghèo, của thương binh, con liệt sỹ không được hưởng trợ cấp hàng tháng, nhà ở xã hội,…”, báo cáo cho biết.
Đối với tác động đến ngân sách nhà nước, theo tính toán của Bộ Tài chính, với mức thuế suất 0,3%, số tiền thuế thu được vào khoảng 22.700 tỷ đồng (nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 1 tỷ đồng) hoặc khoảng 23.300 (nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 700 triệu đồng).
Với mức thuế suất 0,4%, dự kiến số tiền thuế thu được là 30.300 tỷ đồng (nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 1 tỷ đồng) hoặc khoảng 31.000 (nếu áp dụng ngưỡng không chịu thuế đối với nhà là 700 triệu đồng).
Dù vậy, cơ quan này cũng thừa nhận một số tác động tiêu cực. Cụ thể, việc đánh thuế trên toàn bộ giá trị đất ở với mức thuế suất cao và đánh thuế đối với nhà ở sẽ có tác động đến người dân, đặc biệt là đối với những người có quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, nhà ở có giá trị lớn nhưng không có thu nhập để đóng thuế.
“Để giải quyết vấn đề này, tại Điều 10 dự thảo Luật đã quy định cho phép chậm nộp tiền thuế như sau: Trường hợp người nộp thuế không có khả năng nộp thuế thì được chậm nộp tiền thuế và không tính phạt chậm nộp trong thời gian chậm nộp thuế. Người nộp thuế phải có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trước khi chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản”, Bộ Tài chính cho hay.
Phương Dung
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
Thuế tài sản nhà, đất: “Đánh mạnh vào người giàu, 90% dân không ai phản đối!”
- Published in Tin tức
Thuế tài sản nhà, đất: “Đánh mạnh vào người giàu, 90% dân không ai phản đối!”
Thuế tài sản nhà, đất: “Đánh mạnh vào người giàu, 90% dân không ai phản đối!”
Bộ Tài chính đã công bố Dự thảo tờ trình gửi Chính phủ về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản. Theo đó, Bộ này đề xuất sẽ đánh thuế tài sản đối với đất ở, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất phi nông nghiệp nhưng sử dụng vào mục đích kinh doanh hoặc để ở.
Nhà và công trình trên đất có giá trị trên 700 triệu đồng, ô tô có giá trị từ 1,5 tỷ đồng trở lên, tàu bay, du thuyền… sẽ bị đánh thuế. Mức thuế suất dự kiến ở mức 0,3 hoặc 0,4%. Dự thảo Luật thuế tài sản của Bộ Tài chính nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ người dân và giới chuyên gia.
Xung quan dự án này, PGS. TS Hoàng Văn Cường – Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân, Đại biểu Quốc hội (Uỷ viên Uỷ ban Tài chính – Ngân sách) đã có một số chia sẻ với PV Dân trí.
Mục tiêu thì tốt…
Thưa ông, Bộ Tài chính hiện đang lấy ý kiến về việc xây dựng Dự án Luật Thuế tài sản. Đây là một loại thuế khá phổ biến được nhiều quốc gia áp dụng. Tuy nhiên, theo ông, thuế tài sản liệu có phù hợp với Việt Nam vào thời điểm này hay không?
Thuế tài sản là sắc thuế khá phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới, đóng vai trò quan trọng trong điều tiết hành vi sử dụng, chiếm hữu tài sản cũng như đóng góp nguồn thu ngân sách.
Đối với các loại tài sản hữu hạn thì cần phải có các quy định điều tiết hành vi sở hữu. Điển hình như nhà đất, bất động sản là tài sản hữu hạn, không phải vô hạn nhưng nhu cầu lại là phổ thông, tất cả mọi người đều cần. Do đó, phải sử dụng thuế tài sản để điều chỉnh, hạn chế hành vi chiếm hữu quá nhiều, làm mất cơ hội tiếp cận của người khác.
Rõ ràng, một sắc thuế phổ biến với mục tiêu cơ bản là điều tiết hành vi, tạo ra sự công bằng, cơ hội tiếp cận cho mọi người thì là một sắc thuế tốt. Vậy sắc thuế này có phù hợp với Việt Nam không?
Theo tôi, Việt Nam đang là nước thu nhập chưa cao, thậm chí chúng ta cũng chỉ vừa thoát khỏi ngưỡng nghèo và đang ở ngưỡng trung bình nhưng thấp. Tuy nhiên, giá nhà đất của chúng ta lại rất cao, thậm chí nếu tính tương quan giá nhà đất với thu nhập ở Việt Nam là cao nhất. Vì sao? Bởi trong đấy có lý do hết sức cơ bản là tình trạng đầu cơ, đẩy giá bất động sản, đẩy giá nhà lên.
Dân số Việt Nam đông, nhu cầu sở hữu nhà đất lớn nhưng số lượng nhà ở đất đai có hạn, nếu một nhóm người chiếm hữu quá nhiều sẽ khiến nguồn cung ít đi. Mà cầu nhiều lại là nguyên nhân khiến giá tăng, người đầu cơ hưởng lợi, vô hình chung điều đó khuyến khích thúc đẩy đầu cơ.
Trong bối cảnh đó, nếu như thuế tài sản điều tiết được hành vi chiếm hữu này, hạn chế những người chiếm hữu quá nhiều bất động sản sẽ tạo cơ hội tiếp cận nhà đất cho những người không có nhiều tiền.
Xin ông chia sẻ thêm về lý do tại sao thuế tài sản lại có thể góp phần điều tiết hành vi chiếm hữu tài sản, tạo cơ hội tiếp cận cho nhiều người thu nhập thấp hơn?
Tất nhiên quyền sở hữu tài sản là của công dân, nhà nước không thể dùng biện pháp hành chính cấm. Tuy nhiên, ở đây, anh có quyền mua nhiều nhưng phải nộp thuế cao, nộp thuế cao để buộc anh phải tính toán hạn chế chiếm hữu đi, tạo cơ hội tiếp cận cho người khác. Còn nếu muốn chiếm hữu nhiều thì phải nộp nhiều thuế, khoản thuế đó được tập trung vào ngân sách và để trang trải, đầu tư hạ tầng, nhà mới cho xã hội, tạo cơ hội cho người khác.
Chính vì vậy, nhiều năm qua, các chuyên gia và nhiều người cho rằng, Việt Nam nên áp dụng thuế tài sản. Nếu làm tốt rõ ràng tránh được tình trạng đầu cơ, giá tài sản tăng quá cao, nhiều người chiếm hữu quá nhiều nhà cửa, đất đai.
Tình trạng sở hữu đất đai, nhà cửa mà theo kiểu “kẻ ăn không hết người lần chẳng ra” ở Việt Nam không hề thiếu. Nếu đánh thuế tài sản sẽ buộc họ phải điều tiết.
Như vừa qua, 3 đặc khu kinh tế của chúng ta vừa mới dự kiến hình thành thôi là nhà đầu cơ đã nhảy ra mua đất chờ giá tăng. Họ cứ đổ tiền vào đó bởi dù sau này giá đất tăng hay không tăng họ cũng không phải nộp thêm đồng thuế nào.
Tuy nhiên, nhà đầu cơ có tiền ném ra đấy, ôm hết đất lại thì khi giá lên người dân, Nhà nước hay nhà đầu tư có hưởng lợi không? Dĩ nhiên là không, như các nhà đầu tư, do giá đất tăng lên khiến họ phải bỏ nhiều tiền hơn để đầu tư mặt bằng, đầu tư phát triển, trong khi đáng ra tiền đó có thể dùng để đầu tư kinh doanh. Còn nhà nước thì mất thêm chi phí giải phóng mặt bằng khi đền bù lấy đất thu hút đầu tư.
Hoặc chúng ta nhìn thấy Nhà nước bỏ tiền rất nhiều chỉnh trang đô thị, khi giá đất tăng lên người đầu cơ hưởng lợi, nhà nước hưởng gì? Thôi thì người dân được hưởng lợi cũng được nhưng lại không công bằng bởi những người di dời nhà đi để có con đường đấy thì lại được đền bù thấp, trong khi những xung quang đấy tự nhiên hưởng lợi, như vậy là không công bằng.
Thuế tài sản tạo ra công bằng cho những người sở hữu tài sản, đặc biệt là tài sản hữu hạn. Việt Nam đang mất công bằng nên việc áp dụng thuế tài sản là cần thiết.
… nhưng đề xuất cho cảm giác tận thu
Một sắc thuế như ông phân tích là rất cần thiết và phù hợp với Việt Nam nhưng trên thực tế gặp phải nhiều phản đối từ phía người dân. Vậy theo ông, lý do ở đây là vì sao?
Vấn đề là cách chúng ta điều tiết như thế nào? Dự thảo lấy ý kiến của Bộ Tài chính chịu phản ứng của đông đảo vì cách tiếp cận mục tiêu điều tiết không có, không nhìn thấy người chiếm hữu nhiều tài sản phải đóng thuế nhiều trong khi người sử dụng ít, tối thiểu như người thu nhập thấp vay tiền mua nhà ở xã hội giờ cũng nằm trong đối tượng chịu thuế.
Có một số đối tượng họ được miễn thuế nhưng ở đây là nhà nước đặt ra chính sách miễn thuế, còn họ vẫn là đối tượng chịu thuế. Khác nhau hoàn toàn, người ta phản đối với lý lẽ rằng “tôi không cần xin, tại sao tôi phải xin nhà nước miễn thuế”.
Như vậy, chúng ta đang áp dụng cơ chế làm tất cả mọi người phải chịu gánh nặng đóng thuế. Cách đưa ra như thế khiến người ta cảm giác tận thu nên phản đối là điều dễ hiểu.
Vậy trong bối cảnh Việt Nam phải tính thuế như thế nào thì phù hợp, thưa ông?
Kinh nghiệm các nước thì đúng là nhiều nước bất kể người nào sở hữu tài sản đều phải nộp thuế nhưng với Việt Nam có nên không? Có nước bắt đầu từ khởi điểm nào đó mới phải nộp thuế? Đây mới là vấn đề chúng ta nên học kinh nghiệm, áp dụng kinh nghiệm nào?
Dự thảo đưa ra khởi điểm 700 triệu đồng, trên thực tế làm gì có cái nhà nào dưới 700 triệu. Còn dự thảo tính dựa trên suất đầu tư là sai lầm của Bộ Tài chính. Đánh thuế lại đưa ra công thức tính giá không thật, tính thuế phải tính đúng giá thật. Nhà nào là nhà dưới 700 triệu, có thể 1 căn chung cư rất bình thường có giá trên 700 triệu đồng nhưng 1 căn biệt thự rất đẹp cũng dưới 700 triệu đồng.
Chúng ta phải tính dựa trên giá trị thật đi, còn tại sao không làm được thì phải nghĩ, không thể vì chưa đánh giá đúng giá trị lại dùng những cái méo mó lệch lạc. Như vậy thì chính sách sai.
Với sắc thuế này, hãy tính ra giá trị trung bình của xã hội là bao nhiêu, dưới mức đó không phải nộp thuế còn những người nào đang chiếm hữu nhiều hơn mức trung bình thì phải đóng góp vào ngân sách để đầu tư phát triển, tạo cơ hội tiếp cận nhà cho người khác.
Vậy người dân có phản đối không? Tôi nghĩ những người ở mức trung bình trở xuống người ta thấy như thế không tạo sức ép, không ảnh hưởng thì sẽ không còn phản đối.
Còn người chiếm hữu nhiều tài sản thì không chỉ mức thuế 0,4% mà phải luỹ tiến như nhiều nước đưa ra với dạng bất động sản cao cấp, xa xỉ. Nếu đưa ra chính sách luỹ tiến với những đối tượng như thế rõ ràng người dân nhìn thấy mục tiêu là điều tiết những người đang chiếm hữu quá nhiều tài sản của xã hội. Vậy thì làm gì có ai phản đối. Có chăng chỉ là 10% người giàu phản đối chứ 90% người dân Việt Nam sẽ đồng tình.
Nếu đưa ra chính sách như thế cũng đừng lo ngại nguồn thu ít, có khi còn nhiều hơn. Vì hiện đang áp dụng đại trà, người dân đang đóng vài triệu mỗi năm trong bối cảnh thu nhập bình quân hiện nay thì sức ép quá lớn bởi thu nhập bình quân đầu người của chúng ta cũng mới chỉ có 2.400 USD/năm.
Trong khi đó, nếu thu đại trà như hiện nay thì phải chi phí cho công tác thu phí nhiều. Hiện nếu phải thu 90 triệu dân thì chi phí cho bộ máy rất lớn nhưng chỉ nhắm vào đối tượng chiếm hữu nhiều thì đối tượng thu thuế sẽ ít đi, chi phí hành chính ít, hiệu quả hơn rất nhiều.
Như vậy, không chỉ người dân đồng tình mà nguồn thu cũng tăng. Đương nhiên sẽ có tác động đến hành vi đầu cơ, tác động tới việc mua nhà đất chờ tăng giá khiến thị trường minh bạch, lành mạch, giá nhà đất bình ổn hơn. Rõ ràng việc đó là tốt cho xã hội, như vậy mới đúng nghĩa tạo ra lành mạnh cho xã hội trong khi tạo nguồn thu ngân sách.
Phương Dung
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
HoREA: Đề xuất mức thuế tài sản đối với nhà 700 triệu đồng chưa thỏa đáng
- Published in Tin tức
HoREA: Đề xuất mức thuế tài sản đối với nhà 700 triệu đồng chưa thỏa đáng
HoREA: Đề xuất mức thuế tài sản đối với nhà 700 triệu đồng chưa thỏa đáng
(Xây dựng) – Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) vừa có văn bản gửi Thủ tướng, các Bộ Tài chính, Tư pháp và Tổng cục Thuế để kiến nghị một số nội dung liên quan đến việc Bộ Tài chính đề xuất ban hành Luật Thuế tài sản.
HoREA cho rằng Luật Thuế tài sản được áp dụng ở đa số các nước trên thế giới, là nguồn thu quan trọng, ổn định và bền vững của ngân sách, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Nước ta hiện nay chưa thu thuế nhà ở, chỉ có thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Mức thuế phải nộp nhìn chung là thấp nên HoREA cho rằng cần thiết xây dựng Luật Thuế tài sản, trong đó, có thuế đất ở, nhà ở, nhất là trong giai đoạn sau năm 2020.
Tuy nhiên, có điểm khác biệt cơ bản là ở các nước khác thì đất đai thuộc sở hữu tư nhân, không có khoản thu ngân sách “tiền sử dụng đất” như ở nước ta. “Tiền sử dụng đất” hiện nay không phải là một sắc thuế vì đang được quy định bởi Luật Đất đai, và là một nguồn thu quan trọng của ngân sách. “Tiền sử dụng đất” đang là “ẩn số”, là “gánh nặng”, cách tính tiền sử dụng đất đang tạo ra cơ chế “xin – cho”, nhũng nhiễu và doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất thủ tục hành chính này. “Tiền sử dụng đất” đang chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá thành nhà ở. Do vậy, HoREA cho rằng cần thiết xây dựng dự án Luật Thuế tài sản (đánh thuế đất ở, nhà ở) cần đi đôi với việc sửa đổi chính sách và cơ chế tính “tiền sử dụng đất”.
Ngoài ra, Luật Thuế tài sản nếu được ban hành tại thời điểm hiện nay sẽ có tác động rất lớn đối với thị trường bất động sản và người tiêu dùng. HoREA quan ngại nếu thu thuế sẽ xảy ra tình trạng “thuế chồng thuế”.
Hiệp hội tán thành việc áp dụng mức thuế suất 1% (thậm chí là cao hơn) đối với đất sử dụng không đúng mục đích; đất và nhà không đưa vào sử dụng. HoREA tán thành áp dụng mức thuế suất 2% đối với đất và nhà lấn, chiếm. Mục đích là khuyến khích đưa nhà, đất vào sử dụng, tránh lãng phí, chống bao chiếm, đầu cơ nhà, đất hoặc để răn đe các trường hợp vi phạm pháp luật. HoREA cho rằng việc áp dụng miễn thuế cho nhà từ 700 triệu đồng trở xuống là chưa thỏa đáng và đề nghị áp dụng thuế suất 0% đối với nhà ở có giá trị từ 1 tỷ đồng trở xuống để hỗ trợ thiết thực cho những người có thu nhập trung bình thấp và người có thu nhập thấp trong xã hội. Đồng thời, kiến nghị miễn hoặc tối thiểu giảm 50% số thuế nhà đất phải nộp đối với các vườn ươm khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp để khuyến khích khởi nghiệp, lập nghiệp và đổi mới sáng tạo.
Bài viết liên quan: https://duanbietthuchungcu.com
- Published in Tin tức
Các nước tính thuế nhà đất ra sao?
Các nước tính thuế nhà đất ra sao?
Ở nhiều quốc gia, tùy khung giá trị nhà, tùy mục đích sử dụng mà áp mức thuế suất khác nhau. Ngôi nhà thứ hai trở đi, nhà bị bỏ trống không người ở cũng bị đánh thuế cao hơn thông thường.
Bộ Tài chính mới đây đã dự thảo Luật thuế tài sản để trình Quốc hội trong đó đề xuất phương án áp dụng mức thuế tài sản chung (gồm cả đất và nhà) với tỷ lệ 0,3% nếu xác định ngưỡng nhà không chịu thuế dưới 1 tỷ đồng hoặc áp dụng tỷ lệ 0,4% nếu ngưỡng nhà không chịu thuế là 700 triệu đồng.
Phương án thứ 2 dự kiến mang về cho ngân sách khoảng 31.000 tỷ đồng. Đây cũng là phương án đang được Bộ Tài chính đề xuất áp dụng.
Thực tế, việc thu thuế tài sản tại Việt Nam đã có từ trước và đang điều tiết đối với tài sản là đất. Luật sử dụng đất phi nông nghiệp đang quy định thuế suất đất ở là 0,03% với các trường hợp diện tích trong hạn mức.

Biểu thuế suất đất ở – Luật sử dụng đất phi nông nghiệp
Đóng góp của các khoản thuế thu trong quá trình sử dụng tài sản (thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế sử dụng đất nông nghiệp) hiện chiếm khoảng 0,036% GDP.
Theo thống kê, riêng khu vực Châu Á, trong giai đoạn 2005-2013, tỷ lệ thu thuế tài sản so với GDP ở các nước phát triển và một số nước đang phát triển là khoảng 2%/GDP.
Hiện có 174/193 nước thực hiện thu thuế tài sản (thuế thu hàng năm, trong quá trình sử dụng tài sản). Việc đánh thuế tài sản ở mỗi quốc gia không hoàn toàn giống nhau. Đặc biệt, ở nhiều nước có sự phân biệt về giá trị tài sản, mục đích sử dụng đất ở cũng như hạn chế tình trạng đầu cơ nhà đất bằng cách đánh thuế cao ở nhà thứ 2 trở đi, nhà bỏ trống.
Tại Hàn Quốc, nhà ở sử dụng cho các mục đích xa xỉ thưởng bị đánh thuế rất cao. Thuế đất Tại Hàn Quốc từ 0,2% đến 0,5% đối với đất và áp dụng mức 4% với riêng đất xây dựng khu golf và đất xây dựng khu du lịch hạng sang. Còn đối với nhà ở thông thường, mức thuế sẽ là 0,1% đến 0,4%. Villa, nhà cho sân golf và các dịch vụ xa xỉ bị áp thuế 0,4%, các nhà máy ở khu dân chịu mức thuế 0,5% nhưng ở vùng có mật độ dân số lớn có thể bị áp thuế lên tới 250%. Mức thuế suất 0,25% được áp dụng đối với các tòa nhà mục đích khác. Ngoài ra, đất và nhà ở có giá trị vượt ngưỡng quy định còn phải nộp thuế bất động sản với thuế suất từ 0,5%-2%.
Tương tự như Hàn Quốc khi tách riêng phần thuế với đất và nhà, Đài Loan, Trung Quốc cũng quy định thuế đất 0,2% đến 5% tùy từng loại đất, diện tích. Còn đối với thuế nhà, quốc gia này áp dụng mức thuế 1,2% – 2% đối với nhà chung cư; khoảng 1,4% đối với nhà riêng; 3% – 5% đối với công trình thương mại.
Trong khi đó, Brunei, quốc gia giàu có của Đông Nam Á lại không đánh thuế đất mà chỉ đánh thuế nhà (gồm cả nhà thương mại) với mức 12% giá trị.
Philippines quy định các loại nhà chịu thuế gồm nhà ở, nhà kinh doanh, đất ở, đất xây dựng công trình và tính thuế 2% ở Manila, 1% ở tỉnh khác.
Campuchia quy định thu thuế đối với nhà ở, tòa nhà và công trình trên đất có giá trị trên 100 triệu KhR (24.900 USD) ở một số thành phố với mức thuế bất động sản 0,1%.
Indonesia áp thuế 0,5% đối với nhà, đất có giá trị vượt 8.000.000Rp (gần 600 USD). Còn tỷ lệ này tại Thụy Sỹ là từ 0,5% đến 3%; Hungary: 1,5%; Hy Lạp từ 0,3% đến 0,8%.
Mức thuế suất áp dụng tại Phần Lan là 1,2% đến 2%. Tuy nhiên, với đất thương mại, công nghiệp, nhà đất vượt quá mức 29.200USD áp dụng mức cao hơn gấp 1,3 lần.
Trong khi đó, ở một số quốc gia, việc đánh thuế tập trung căn nhà thứ hai trở đi hay các tài sản nhà ở không có chủ sở hữu để tránh tình trạng đầu cơ bất động sản như tại Singapore, Nhật, Anh, Pháp.
Như tại Singapore, các bất động sản nhà ở với mức giá dưới 8.000 USD được hưởng thuế bất động sản bằng 0. Đây chủ yếu là căn hộ có một và hai phòng. Mức thuế tài sản dao động từ 4% đến 16% giá trị nhà, đất vượt ngưỡng, trong đó nhà thương mại, nhà công nghiệp là 10%. Thuế bất động sản đối với nhà bỏ trống từ 10% đến 20%.
Trong khi đó tại Anh, tùy theo giá trị ngôi nhà thuộc khoảng nào mà có tỷ lệ đánh thuế khác nhau. Với căn nhà thứ 2, thuế phải đóng ở mức cao hơn tới 3%. Anh cũng áp thuế 7,5% đối với nhà, đất bỏ trống từ 2 năm trở lên.

Tại Mỹ, người sở hữu nhà kể từ khi bắt đầu sở hữu, phải đóng thuế đất cho địa phương. Việc đánh thuế bất động sản do các tiểu bang quy định, mỗi tiểu bang có thuế suất khác nhau. Giá trị bất động sản ở các bang cũng khác nhau. Như tại một số quận tại tiểu bang New York, mức thuế suất áp dụng lên tới hơn 3%. Đây cũng là khu vực có giá bất động sản cao khiến tiền thuế đất nộp hàng năm của quận thuộc hạng cao. Trong khi ở nhiều khu vực, thuế suất thuế tài sản dưới 0,5%.
Khoản thuế này ở nhiều địa phương còn là nguồn thu chính cho ngân sách dùng để chi phí cho trường học, bệnh viện, công viên, đèn đường…
Nguồn: http://cafef.vn/cac-nuoc-dang-danh-thue-nha-dat-ra-sao-20180416093211966.chn
- Published in Tin tức